Thuật từ này trở thành một biệt ngữ tại Pháp áng chừng vào năm 1955 với việc Robbe-Grillet cho xuất bản những tiểu luận về bản chất và tương lai của tiểu thuyết ( trong những tạp chí xuất bản định kì và những bài phê bình sách) (xem ở phần sau). Những lí thuyết của ông về sau đã được tập hợp lại trong tác phẩm Pour un nouveau roman (1963) [Vì một nền tiểu thuyết mới-ND]. Phong trào này, nếu theo cách gọi: tiểu thuyết mới phần nào có nghĩa phá hủy vì rằng nó chối bỏ những gì trước đó. Trong vai trò của người truyền bá lí thuyết mới, Robbe-Grillet coi những tiểu thuyết gia như trò chơi cũ rích. Cốt truyện, hành động, câu chuyện, ý tưởng, việc mô tả và phân tích nhân vật..những điều đó có ít hoặc không có chỗ trong tiểu thuyết. Trái lại, tiểu thuyết cần là một dạng của “chủ nghĩa vật thể”- theo cách nói của Paul Jennings. Tiểu thuyết cần nói về những vật thể; một phiên bản và viễn cảnh riêng biệt về những vật thể; một bản ghi chép có tính hệ thống và phân tích về những đồ vật. Và trong thực tế, nhiều trong số những tiểu thuyết mới đã và đang đi theo đường hướng đó; chẳng ở đâu mà sự thực hành được biểu hiện tốt hơn như trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng La Modification (1957) [Sự biến đổi-ND] của Michel Butor.
Quan điểm về vai trò của tiểu thuyết đó không hoàn toàn mới mẻ gì. Trước đó khá lâu, Huysmans đề xuất những thứ có thể làm đối với đồ vật và cách thức mà tiểu thuyết có thể bị giải nhân cách hóa; Kafka cho thấy rằng những phương pháp theo lối thường tình trong việc mô tả nhân vật là không cần thiết; James Joyce chứng minh rằng người ta có thể bỏ đi cốt truyện; và Louis-Ferdinand Celine, trong một số tiểu thuyết mà đặc biệt là trong Voyage au bout de la nuit (1932) [Hành trình đến tận cùng đêm tối- ND], đã viết những chủ đề mà về sau đã khiến những theo thuyết hiện sinh và hodjas (những bậc thầy) của sự tôn sùng cái phi lí quan tâm, đặc biệt là những người ủng hộ Kịch Phi Lí (xem ở phần sau). Proust, William Faulkner, Samuel Beckett và Albert Camus cũng cho thấy rằng có thể phá vỡ một số quy ước truyền thống của hình thức tiểu thuyết.
Vào năm 1939, Nathalie Sarraute xuất bản Tropismes [Tính hướng-ND] và được coi như nguyên mẫu khả dĩ của tiểu thuyết mới. Về sau, vào năm 1952, bà xuất bản tập tiểu luận có tên L’Ère du soupçon [Thời ngờ vực-ND] trong đó bà thảo luận về hình thức tiểu thuyết. Trong những năm 1940, Maurice Blanchot viết một vài tiểu thuyết mới như Aminadab (1942), Le Dernier Mot (1947) [Lời cuối -ND], Les Tres-Haut (1948) [ Những thứ cao nhất –ND]. Sau những tiểu thuyết này ông viết Le Ressassement eternel (1951) [Sự lặp lại vô tận-ND], Celui qui ne m’accompagnait pas (1953) [Người không đi cùng tôi-ND] và một vài tác phẩm khác. Robbe-Grillet, tác giả nổi tiếng nhất trong số những tiểu thuyết gia, viết Les Gommes ( 19 5 3 ) [Những cục gôm-ND], Le Voyeur (1955) [Kẻ nhìn trộm –ND], La Jalousie (1957) [Lòng ganh tị- ND] và Dans le labyrinthe (1959) [Trong mê cung –ND]. Michel Butor cũng thực hiện những thử nghiệm trong L’Emploi du temps (1957) [Sử dụng thời gian –ND] và Degres (1960) [Những độ -ND]. Người ta cũng đề cập tới những tác phẩm khác của Nathalie Sarraute; Portrait d’un inconnu ( 1947)[ Chân dung kẻ xa lạ- ND], Le Planetarium (1959) [Mô hình vũ trụ-ND] và Vous les entendez (1972). Một thành viên nổi bật khác trong số những người thử nghiệm là Claude Simon, một số tiểu thuyết hay nhất của ông bao gồm: Le Tricheur (1945) [Kẻ gian lận –ND], L’Herbe (1958) [Cỏ -ND], La Route des Flandres (1960) [Con đường xứ Flandres- ND], Histoire (1967) [Lịch sử -ND] và La Bataille de Pharsale (1969) [Trận Pharsale- ND].
Trịnh Kha chuyển ngữ
Bình Phước, 14/5/2018
Nguồn: J. A. Cuddon. “Nouveau roman” The Penguin Dictionary of Literary Terms and Literary Theory. 3rd edition. Penguin Books, 1992